
Nền kinh tế Việt Nam đã bước vào 2 tháng cuối cùng của năm 2025, nhìn lại hơn 3 quý đã qua, ông đánh giá như thế nào về tính khả thi của mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm trên 8%?
Triển vọng tăng trưởng GDP 8,3-8,5% cho năm nay hoàn toàn có thể đạt được khi nhìn vào gia tốc của nền kinh tế hiện tại. Tuy nhiên, tôi không muốn nói nhiều tới con số tăng trưởng mà muốn nhấn mạnh tới việc năm 2025 cần được xem là điểm khởi động của một quá trình khác thường cho nền kinh tế Việt Nam: đất nước đang tiến vào một Kỷ nguyên mới.
Chúng ta biết rằng ở thời điểm đầu năm, mọi thứ còn rất ngổn ngang. Nền kinh tế đang trên đà hồi phục nhưng thực lực còn yếu, đặc biệt ở khu vực nội địa. Tăng trưởng phần lớn đến từ khối ngoại, trong khi khu vực tư nhân Việt đang trải qua giai đoạn có thể nói là khó khăn nhất kể từ khi Đổi mới.
Số doanh nghiệp “rút lui” khỏi thị trường xấp xỉ số doanh nghiệp đăng ký thành lập, thậm chí còn vượt lên. Thêm vào đó, bối cảnh quốc tế có những yếu tố bất thường đặc biệt, tác động tiêu cực mạnh, điển hình là chính sách thuế đối ứng của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Để giải quyết vấn đề, trong tình thế đó, lập trường của Việt Nam là trong tình thế bất thường cần áp dụng giải pháp khác thường, bước vào Kỷ nguyên mới mà cứ tiếp tục logic của giai đoạn trước sẽ không thể hiệu quả. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhận diện đúng nguy cơ và rủi ro, chấp nhận “đánh đổi” để triển khai các biện pháp đột phá - mở đường. Đến nay “hiệu ứng hòn tuyết lăn” của những giải pháp khác thường này đang phát huy tác dụng.

Trong nửa đầu năm, khi ông Donald Trump tuyên bố chính sách thuế đối ứng, kinh tế thế giới rơi vào tình thế hỗn loạn và rất nhiều chuyên gia đã dự báo về một viễn cảnh ảm đạm. Vậy điều gì đã khiến kinh tế Việt Nam vượt qua tình thế khó khăn và vẫn kiên định với mục tiêu tăng trưởng trên 8%?
Chính sách thuế đối ứng của ông Donald Trump là yếu tố bất thường đặc biệt chứ không đơn giản là toàn xấu hay bất lợi. Nếu biết cách tận dụng, nó có thể mang lại lợi thế. Việt Nam chính là quốc gia nỗ lực hành động theo tinh thần này và bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Bối cảnh ở đây có thể được mô tả là “cùng tắc biến”.
.png)
Yếu tố bất thường đặc biệt từ bên ngoài có thể tạo ra một cú sốc lớn, tác động tiêu cực mạnh. Việt Nam nhập khẩu lớn từ Trung Quốc và xuất siêu lớn sang Mỹ, khả năng chịu cú sốc là rất lớn. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, nền kinh tế của ta vẫn trụ vững, vẫn tăng trưởng khá tốt và giữ được lạm phát thấp.
Điều đó cho thấy sức chống chịu của một nền kinh tế mở cửa hội nhập ở cấp độ cao khi thực lực chưa mạnh. Việc chúng ta xử lý tốt được tình huống mà không hoảng loạn, giữ được sự bình tĩnh, để tận dụng cơ hội là yếu tố cơ bản giải thích tại sao Việt Nam có thể giữ vững niềm tin, đồng thời, ngày càng được bạn bè thế giới tin cậy.
Thực tế cho thấy, chúng ta tích cực đàm phán với phía Mỹ, đồng thời, tận dụng cơ hội tăng tốc xuất khẩu trước khi thuế đối ứng có hiệu lực. Điều này cho thấy khả năng ứng biến và cách tiếp cận giải quyết vấn đề của Việt Nam nằm ở nội lực, ở cơ cấu bên trong nền kinh tế, chứ không bị cuốn đi bởi những tác nhân bên ngoài.
.png)
Ở đây, cũng phải nói tới quyết tâm rất lớn của Đảng và Chính phủ trong việc kiên định mục tiêu tăng trưởng trên 8%, gắn với đẩy mạnh cải cách trong điều kiện rất khó khăn. Khi thuế đối ứng được chính quyền Mỹ công bố vào cuối tháng Tư, nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ ta xem xét mục tiêu tăng trưởng “mềm” và linh hoạt hơn, từ 7% đến 8%, thay vì chốt cứng “từ 8% trở lên”.
Giữ một độ lùi tăng trưởng là hợp lý một khi chúng ta không thể kiểm soát được tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tuy nhiên, Thủ tướng lại có cách tiếp cận khác. Ông nói tình hình năm nào cũng có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, không năm nào không có khó khăn.
Phải tinh đến khó khăn, nhưng nếu quá chú tâm vào đó, chúng ta sẽ chỉ lo lắng, tìm mọi cách “phòng thủ”, lo “hạ” mục tiêu để “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, trong khi Ông cho rằng cách đặt vấn đề đúng là phải đặt mục tiêu cao để nỗ lực phấn đấu, để thử thách năng lực của chính chúng ta.
Việc ứng biến tích cực với tác động từ bên ngoài - thuế đối ứng là một trường hợp - cũng thể hiện rất rõ trong chính những thay đổi cực kỳ mạnh mẽ bên trong nền kinh tế mà nổi bật nhất là việc ban hành “Bộ tứ Nghị quyết” (57-59-66-68). Cùng với việc thực thi quyết liệt những thay đổi theo tinh thần của các Nghị quyết này, việc đột phá “điểm nghẽn của điểm nghẽn” (thể chế) đã giúp nền kinh tế từng bước vượt qua tình thế khó khăn, tìm mọi cơ hội có thể để tăng tốc, tạo cơ sở để thực sự vươn mình.
Hiện tại, nền kinh tế đang đương đầu với hàng loạt điểm nghẽn, khó khăn vốn có. Theo thời gian, lại xuất hiện thêm những thách thức mới, bất thường. Khó khăn tích hợp lại, cộng hưởng, nhân bội lên chứ không đơn thuần là bổ sung, cộng dồn. Tỷ giá chao đảo, nguy cơ lạm phát, lãi suất tăng, giá bất động sản “vút cao”, v.v… Trong bối cảnh đó, cần tiếp cận vấn đề bằng tầm nhìn, sự bình tĩnh, với cách tiếp cận “khác thường” để tìm kiếm hệ giải pháp phù hợp.

Ông có thể phân tích rõ hơn về “giải pháp khác thường trong tình thế bất thường” và “chấp nhận đánh đổi để triển khai các biện pháp đột phá mở đường”, giúp nền kinh tế mở khóa tiềm năng, rồi tăng tốc?
Tôi xin lấy ví dụ thị trường bất động sản. Ngoài trạng thái trầm lắng của hoạt động giao dịch, các điểm nghẽn thể chế, pháp lý của thị trường bất động sản, nhất là những yếu tố “tích” lại trong Luật Đất đai, vẫn chưa được tháo gỡ triệt để. Luật Đất đai sửa đổi được thông qua năm 2024 vẫn chưa đủ để tạo ra động lực mới để giải phóng sức mạnh to lớn của nguồn lực đất đai.
Đây thực sự là một khó khăn, một điểm nghẽn chứa đầy nguy cơ.
Nhưng ở một phương diện khác, lại có thể nhìn nhận nó như một cơ hội to lớn hiếm có. Và Chính phủ đang cố gắng tiếp cận vấn đề theo hướng này
Báo cáo trước Quốc hội, Thủ tướng chỉ ra rằng hơn 2.200 dự án đang bị ách tắc, chủ yếu do “vướng thủ tục pháp lý”, tích đọng khoảng 5,9 triệu tỷ đồng (tương đương 235 tỷ USD) và gần 350.000 ha đất. Đây là nguồn lực khổng lồ đang bị đóng băng, rất lãng phí. Nếu tập trung đột phá và giải quyết được loại ách tắc này, 6-7 triệu tỷ đồng sẽ được giải phóng, sẽ trở thành một nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng đặc biệt mạnh mẽ.
Toàn bộ nỗ lực của Đảng và Nhà nước hiện nay là “phá băng”, vừa giải quyết các vấn đề hệ thống, cơ chế, vừa tạo ra những điểm đột phá mạnh. Hàng loạt các dự án bất động sản ở các địa phương đang được nỗ lực “phá băng”. Nếu được kích hoạt thêm bằng những nguồn lực bổ sung, có thể hình dung ra một triển vọng sáng sủa.

Trong số các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh đầu tư công có tác động đặc biệt quan trọng. Đầu tư công, nhất là cho các dự án giao thông quy mô lớn, không chỉ “bơm vốn” để giải quyết các tắc nghẽn hiện tại, đóng góp trực tiếp vào tăng trưởng mà còn tạo nền tảng hạ tầng cho tương lai.
Đối với việc nới lỏng tín dụng, trong khi khu vực tư nhân đang gặp khó khăn, giải pháp bơm mạnh tín dụng để tiếp sức, giúp khu vực này hồi phục và tăng trưởng. Đối với nền kinh tế nước ta hiện nay, phối hợp công - tư “bơm vốn” là điều kiện then chốt để tạo bứt phá về tăng trưởng.
Tuy nhiên, phải luôn ghi nhớ rằng, khi quá trình “giải phóng” thể chế chưa hoàn tất, việc bơm tiền khó đạt được hiệu quả tối ưu, thậm chí còn tích lũy rủi ro. Cách tiếp cận khác thường trong điều kiện bất thường cũng tiềm chứa nguy cơ đe dọa ổn định vĩ mô. Mà đây chính là tình thế hiện tại mà nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi.
Vậy yếu tố rủi ro khi triển khai những biện pháp mở đường trong bối cảnh bất thường là gì?
Có hai điểm của Việt Nam mà tôi thấy vẫn còn là bí ẩn và cần đặc biệt “cảnh giác”. Đó là việc duy trì tăng trưởng cao 6–8% trong khi lạm phát luôn ở mức thấp dưới 4% suốt hàng chục năm qua. Trong bối cảnh lạm phát toàn cầu biến động mạnh, mức lạm phát 4% duy trì nhiều năm với một quốc gia đang phát triển, đang cần vốn để bứt phá phát triển, duy trì tốc độ tăng trưởng cao “bền vững” luôn chứa đựng nghịch lý. Đây là một nghịch lý thông thường của kinh tế học.

Vấn đề đặt ra là: Tại sao Việt Nam có thể duy trì tăng trưởng cao và lạm phát thấp trong nhiều năm, trong khi khu vực nội địa yếu và luôn khát vốn? Sau giai đoạn COVID-19, đa số doanh nghiệp tư nhân trong nước kiệt quệ, khó tiếp cận tín dụng. Lạm phát thấp trong bối cảnh lượng tiền bơm ra không ít là kết quả của vòng quay vốn chậm, năng lực hấp thụ vốn yếu. Nền tảng cho tăng trưởng bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô không thật sự vững chắc.
Hiện nay, khi tình trạng ngân sách khá tốt, đây chính là thời điểm dễ nhận diện rõ các điểm yếu của nền kinh tế để “sửa” – thay đổi nó. Nếu không tìm cách xử lý, các vấn đề sẽ tích tụ, ví dụ như lãi suất cao kéo dài khiến khu vực nội địa suy yếu, và khi vấn đề bùng phát sẽ rất khó xử lý.
Hiện nay, tiền đã bơm ra đủ, nhưng điều cần làm là thúc đẩy vòng quay tiền tệ, nâng cao khả năng hấp thụ vốn của khu vực doanh nghiệp Việt. Cái gọi là ổn định vĩ mô hiện nay chỉ thể hiện ở chỉ số lạm phát thấp, trong khi tình trạng doanh nghiệp – nền tảng căn bản của ổn định – còn yếu và tiềm tàng rủi ro. Mức tăng trưởng tín dụng cao, tiền bơm ra nhiều trong vòng quay tiền thấp và khả năng hấp thụ vốn yếu của khu vực tư nhân là những vấn đề cần được đặc biệt chú ý xử lý.
Việc quá chú trọng vào tăng trưởng cao (một phần đáng kể dựa vào khu vực ngoại) và lạm phát thấp (do khu vực nội hấp thụ vốn yếu…) dễ che khuất thực chất “có vấn đề” ẩn giấu bên trong, có thể khiến chính sách “lệch pha, lệch nhịp”. Đây là điều không thể coi thường.
Bài: Bình Minh – Hoàng Ly
Ảnh: Việt Hùng
Thiết kế: Hương Xuân