GS.TSKH Trần Văn Nhung, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo từng nhận định, Toán học thường là lĩnh vực có thế mạnh của đàn ông. Phụ nữ muốn thành công phải thực sự có nghị lực và đam mê.
Từ nữ giáo sư toán học đầu tiên Hoàng Xuân Sính, 35 năm sau, Việt Nam mới có một nữ giáo sư toán thứ 2, bà Lê Thị Thanh Nhàn. Năm 2023 vừa qua, nữ giáo sư thứ 3 được công nhận ở lĩnh vực này là bà Tạ Thị Hoài An.
Hành trình của họ không chỉ là những cột mốc khoa học mà còn là minh chứng cho sức mạnh của đam mê, trí tuệ và nghị lực phi thường. Câu chuyện về 3 nữ Giáo sư toán học là ba chặng đường khác nhau, nhưng chung một niềm tin: Phụ nữ hoàn toàn có thể chạm đến đỉnh cao của Toán học.

Ở độ tuổi xưa nay hiếm, GS.TSKH.NGND Hoàng Xuân Sính vẫn giữ thói quen đọc báo tiếng Việt, tiếng Pháp và miệt mài nghiên cứu về giáo dục mỗi ngày. Đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp trồng người, nữ Giáo sư ngoài 90 tuổi vẫn chưa cho phép mình ngừng trăn trở về giáo dục nước nhà. “Chỉ có lúc ngủ, tôi mới thôi suy nghĩ về giáo dục”, bà từng chia sẻ.
Năm 1951, sau khi tốt nghiệp bằng tú tài 1 tại trường THPT Chu Văn An (Hà Nội), bà được cậu ruột đón sang Pháp học tiếp. Bước ngoặt đến khi bà chọn học ngành Toán học - không phải vì đam mê ban đầu, mà bởi lời khuyên của cha mẹ. “Nếu muốn trở về xây dựng đất nước, con nên học Toán”.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Toulouse, bà tiếp tục học lên thạc sĩ và có được tấm bằng danh giá ở tuổi 26. Khi con đường khoa học đang rộng mở tại Pháp, bà Sính quyết định gói ghém sách vở, bỏ lại Paris phồn hoa để về nước. “Tôi về vì hai tiếng Tổ quốc”.
Về Việt Nam, bà xin vào giảng dạy tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Mỗi ngày, giảng viên Hoàng Xuân Sính đạp xe 20km để lên lớp, họp hành 10h đêm mới xong.
Trong mưa bom bão đạn, bà vừa dạy học, vừa âm thầm nghiên cứu làm luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn từ xa của nhà Toán học thiên tài Alexander Grothendieck.
Trong 5 năm, hai thầy trò chỉ trao đổi qua 5 bức thư, mỗi bức cách nhau ít nhất 8 tháng. Dù ông từng khuyên bà bỏ cuộc nếu không giải được bài toán khả nghịch. Song bà Sính vẫn kiên trì đến cùng.
Khi chiến dịch Điện Biên Phủ trên không dành thắng lợi cũng là lúc nghiên cứu sinh Hoàng Xuân Sính hoàn thành luận án Tiến sĩ. Năm 1973, luận án với chủ đề “Gr-Catégories” (Gr - Phạm trù) viết tay dài 200 trang bằng tiếng Pháp của bà được gửi đến Pháp.
Hai năm sau, bà bảo vệ thành công tại Đại học Paris 7. Với công trình này, bà Hoàng Xuân Sính trở thành người Việt Nam đầu tiên từ trong nước ra nước ngoài bảo vệ luận án tiến sĩ toán học. Năm 1980, bà được công nhận là nữ Giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam.
Trở về nước lần 2, bà tiếp tục giảng dạy tại Đại học Sư phạm Hà Nội và được bổ nhiệm vị trí Chủ nhiệm Bộ môn Đại số.
Không dừng lại ở nghiên cứu và giảng dạy, năm 1988, bà khởi xướng thành lập Trung tâm Đại học dân lập Thăng Long (nay là Đại học Thăng Long) - trường đại học dân lập đầu tiên của cả nước.
Trong lúc bạn bè còn e ngại, bà một mình đến gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh xin phép mở trường mà không xin ngân sách Nhà nước. Khi được chấp thuận, bà bắt đầu hành trình xây dựng trường với hàng loạt khó khăn bủa vây.
Thời gian đầu, trường hoạt động dựa vào nguồn tiền quyên góp. GS Sính quyết định lấy học phí tương đương 10kg gạo/tháng. Nhờ vậy, Thăng Long trở thành nơi cứu cánh cho nhiều học sinh giỏi trượt đại học công lập.
Tuy nhiên, sau 3 năm, trường gặp khó khi những khoản viện trợ dần cạn kiệt. Không chịu lùi bước, GS Sính một lần nữa đứng lên huy động mọi nguồn tài chính của mình, đồng thời sang Pháp kêu gọi quyên góp.
Bà Sính kể lại đó là những ngày tháng lang thang khắp Paris, vừa đói, vừa mệt. Nhưng chưa một giây phút nào trong thời khắc đó, bà cho phép bản thân dừng lại. Bởi “nếu đóng cửa trường học, các em sinh viên sẽ đi về đâu?”
Chỉ cần trường vẫn còn sinh viên, cô hiệu trưởng Hoàng Xuân Sính khi ấy không nề hà bất kỳ một công việc gì. Có những ngày, không đủ tiền thuê lao công, bà sẵn đến trường từ 6 giờ sáng để quét lớp.
Được dẫn dắt bởi nữ giáo sư tâm huyết, dù đối mặt với muôn vàn khó khăn, Đại học Thăng Long vẫn phát triển trong suốt 37 năm qua. Đến nay, ngôi trường dân lập đầu tiên của Việt Nam do giáo sư toán học Hoàng Xuân Sính sáng lập đang từng bước khẳng định vị thế thương hiệu trên bản đồ giáo dục nước nhà.

Một người đồng nghiệp từng ví nữ Giáo sư Toán học thứ 2 của Việt Nam - bà Lê Thị Thanh Nhàn như “xương rồng trổ hoa” vì nghị lực và tài năng “nở rộ” giữa muôn vàn khó khăn của bà.
Tuổi thơ nữ giáo sư gắn với ký ức về những bữa đói, bữa no trong gia đình nghèo đông con, những năm tháng tự mưu sinh trồng rau, mót lúa và cả tình yêu thương đùm bọc từ củ khoai, nắm gạo của hàng xóm.
Giữa những thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần ấy, đam mê toán học được nhen nhóm và nuôi dưỡng, trở thành động lực giúp cô nữ sinh Thanh Nhàn 16 tuổi nỗ lực thi đỗ khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (sau này là Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên).
Bà được trường giữ lại giảng dạy khi mới tròn 20 tuổi, sau đó nhận học vị Thạc sĩ tại Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Viện Toán học Việt Nam năm 2001.
Chỉ 4 năm sau, bà Nhàn được phong hàm PGS bởi những đóng góp giá trị cho lĩnh vực đại số, trở thành nữ PGS Toán học trẻ nhất cả nước lúc bấy giờ. Thành tích của bà nối dài với giải thưởng Khoa học Viện Toán học cho cụm công trình nghiên cứu về Đại số giao hoán và giải Kovalevskaia cao quý trao thường niên cho các nhà nữ khoa học trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.

Hành trình chinh phục những dấu mốc quan trọng này cũng không dễ dàng với bà Nhàn. Mới lập gia đình nhưng có những đợt học tại Hà Nội 3 tháng bà mới về thăm nhà Thái Nguyên một lần.
“Nghiên cứu khoa học đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ đã có gia đình, là một thử thách gian lao. Bởi ngoài công việc xã hội, chúng tôi còn phải đảm đương thiên chức của người phụ nữ. Nếu không có lòng say mê khoa học, không có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ của người chồng thì tôi khó lòng có thể yên tâm nghiên cứu khoa học”, bà Nhàn bộc bạch.
Với đồng lương ít ỏi khi đó, chồng bà là TS Ngôn ngữ Cao Duy Trinh lo toan kinh tế gia đình và nuôi dạy các con để vợ toàn tâm cho sự nghiệp nghiên cứu, giảng dạy. TS Duy Trinh cũng là người đưa vợ đến gặp GS Nguyễn Tự Cường (Viện Toán học Việt Nam) để xin hướng dẫn làm nghiên cứu sinh. GS Tự Cường lại hẹn TS Duy Trinh nói chuyện riêng, khuyên ông suy nghĩ thật kỹ khi để vợ làm nghiên cứu sinh ngành Toán.
“Tôi hỏi Trinh có chịu được khi có thể thường xuyên phải ăn cơm khê, sống hay thỉnh thoảng vợ mình thẫn thờ như đang sống trong một thế giới khác hay không? Và thật bất ngờ, Trinh đã trả lời tôi, em yêu Nhàn và Nhàn yêu toán, vậy em chấp nhận và làm tất cả để Nhàn được học toán”, GS Tự Cường kể lại.

Với thành tích nghiên cứu xuất sắc, GS Thanh Nhàn từng từ chối nhiều cơ hội làm việc tốt tại nước ngoài để công tác tại Đại học Thái Nguyên trong gần 30 năm.“Tôi đã chọn ĐH Thái Nguyên là nơi gắn bó lâu dài với mong muốn truyền cho sinh viên sự tự tin để phấn đấu, muốn khẳng định rằng những người có xuất phát điểm như tôi đều có thể vươn tới thành công như được đào tạo ở những trường đại học lớn trong và ngoài nước”, nữ giáo sư cho biết.
Bà Nhàn giữ chức Hiệu trưởng ngôi trường này từ năm 2014-2019, không chỉ đóng vai trò quản lý đơn vị mà còn trực tiếp tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Sau đó GS Lê Thị Thanh Nhàn được điều động về công tác tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện giữ chức Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục.

Khác với hành trình đến với Toán của GS Hoàng Xuân Sính và GS Lê Thị Thanh Nhàn, nữ Giáo sư Toán học thứ 3 của Việt Nam - bà Tạ Thị Hoài An là “con nhà nòi” chính hiệu. Sinh ra trong gia đình có bố là giảng viên Toán, mẹ làm bác sĩ, bà Hoài An lớn lên với tình yêu tự nhiên dành cho Toán học. Bà tốt nghiệp thủ khoa ngành Sư phạm Toán tại trường Đại học Vinh, trở thành giảng viên tập sự ở tuổi 21.
GS. TSKH Tạ Thị Hoài An sinh ra trong gia đình có truyền thống hiếu học, bố là PGS Toán học
Bà An tiếp tục học Thạc sĩ và bảo vệ luận án Tiến sĩ năm 2001 dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Hà Huy Khoái, nguyên Viện trưởng Viện Toán học. Thời điểm đó, bà và GS Lê Thị Thanh Nhàn là hai nữ nghiên cứu sinh hiếm hoi, từng trọ trong căn phòng chỉ đủ kê một tấm phản để ngủ và làm việc. Nhờ sự hỗ trợ của vợ GS Huy Khoái, hai nữ nghiên cứu sinh được ở nhờ một căn nhà cấp bốn, được gọi thân thương là “nhà của các chị Dậu”.
Bà An bắt đầu chuyển định hướng từ vai trò giảng viên sang làm nhà nghiên cứu từ sau khi nhận học bổng sang Viện Hàn lâm khoa học Đài Loan và được GS Julie Wang truyền cảm hứng. Năm 2009, bà được công nhận chức danh PGS và nhận Giải thưởng Viện Toán học cho nhà toán học trẻ xuất sắc, đồng thời được tài trợ nghiên cứu từ Quỹ Humboldt (Đức).
GS Hoài An đem con khi ấy mới 22 tháng tuổi sang Đức làm việc, sau đó đến Pháp bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học. Quãng thời gian này, mỗi ngày bà chỉ ngủ khoảng 4 tiếng, một mình chăm con nhỏ kết hợp cường độ công việc cao từng khiến bà phải nhập viện cấp cứu.
“Nhiều khi tôi cũng tự hỏi không hiểu sao tôi có thể vượt qua một cách nhẹ nhàng trước những trở ngại đó, có lẽ do tôi học được sự kiên cường từ mẹ tôi”, bà An chia sẻ. Bên cạnh đó, nữ giáo sư cũng nhận được sự ủng hộ từ gia đình, đặc biệt là từ chồng bà.
Năm 2014, bà trở thành người phụ nữ thứ hai của Toán học Việt Nam nhận bằng Tiến sĩ Khoa học tại Đại học Clermont-Ferrand (Pháp), sau GS.TSKH. Hoàng Xuân Sính. Trong hơn 30 năm gắn bó với công việc nghiên cứu, GS Hoài An hoàn thành 4 đề tài nghiên cứu cấp Bộ, công bố 33 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín, xuất bản hai cuốn sách về lý thuyết số và giải tích phức được đánh giá cao.
Dù đạt nhiều thành tựu, GS Hoài An trăn trở về những rào cản mà phụ nữ gặp phải trong khoa học, từ trách nhiệm gia đình đến định kiến xã hội.
“Bản năng làm mẹ, làm vợ là rào cản cho phụ nữ tập trung 100% tâm trí vào công việc. Trong gia đình, phụ nữ chấp nhận lùi lại phía sau để chăm lo cha mẹ già, con nhỏ. Đối với các nhà khoa học, thời gian ở nước ngoài là làm việc hiệu quả nhất nhưng phụ nữ thường phải từ chối cơ hội hoặc phải mang con theo…", nữ giáo sư từng viết.
Chính vì điều này, bà mong muốn tại các nhà tuyển dụng, quỹ tài trợ tại Việt Nam sẽ có tiêu chí “ưu tiên phụ nữ” như một số quỹ quốc tế đã áp dụng.
.png)
Động lực để bà Hoài An nộp hồ sơ xét giáo sư năm 2023 là mong muốn thực hiện giấc mơ thay bố, PGS Toán học đã mất một năm trước đó. Gia đình, đồng nghiệp và các giáo sư hướng dẫn là những người có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp khoa học của bà, luôn được nữ giáo sư nhắc đến với sự trân trọng.
Hiện tại, GS Hoài An công tác tại Viện Toán học, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Bà thường chia sẻ những câu chuyện tích cực trên trang cá nhân, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ. “Tôi mong hành trình của mình khích lệ những người phụ nữ trên con đường phát triển bản thân,” nữ giáo sư bộc bạch.